Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Thời hạn được bảo hộ như sau:
1. Bảo hộ vô thời hạn
Các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn gồm:
- Đặt tên cho tác phẩm;
- Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả
2. Bảo hộ có thời hạn
Quyền nhân thân quy định tại Khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật SHTT có thời hạn bảo hộ như sau:
Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phảm khuyết danh:
- Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên;
- Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình;
- Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
Trong đó:
Công bố tác phẩm được hiểu là việc phát hành bản sao tác phẩm đến công chúng, với số lượng đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, âm nhạc, trình chiếu tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng, phát sóng một tác phẩm văn học, trưng bày tác phẩm tạo hình, xây dựng tác phẩm kiến trúc.
Tác phẩm khuyết danh là tác phẩm không có tên tác giả (tên thật hoặc bút danh) trên tác phẩm khi công bố ".
So với luật cũ thì quyền tác giả được bảo hộ lâu hơn ở luật mới. Tác phẩm đã công bố tăng thời hạn bảo hộ từ 50 năm lên 75 năm. Đối với tác phẩm chưa công bố nhưng đã định hình trong 25 năm thì được bảo hộ 100 năm. Đây là điểm mới so với luật cũ. Quyền tác giả được bảo hộ tốt hơn.
Đối với tác phẩm không thuộc loại hình tác phẩm tác phẩm điện điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh:
Tác phẩm không thuộc loại hình tác phẩm tác phẩm điện điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
Trong đó:
Đồng tác giả được hiểu trong trường hợp có từ hai người trở lên cùng sáng tạo ra tác phẩm.. Các đồng tác giả cùng đầu tư lao động, tài chính và các điều kiện vật chất khác để sáng tạo tác phẩm là chủ sở hữu chung đối với tác phẩm và được hưởng các quyền của tác giả theo quy định của pháp luật. Nếu tác phẩm được sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng thì các đồng tác giả không phải là chủ sở hữu chung hợp nhất. Trong trường hợp tác phẩm do các đồng tác giả sáng tạo là các phần riêng biệt, có thể tách ra để sử dụng độc lập, thì mỗi người có quyền sử dụng riêng biệt phần của mình và được hưởng quyền tác giả đối với phần đó, trừ khi các đồng tác giả có thoả thuận khác. Nếu tác phẩm là đồng sở hữu và không có thoả thuận khác thì việc sử dụng, định đoạt tác phẩm phải được sự thoả thuận của tất cả các đồng sở hữu; trường hợp có đồng sở hữu chết thì phải được sự thoả thuận của những người thừa kế hợp pháp. Thời hạn bảo hộ chung được áp dụng đối với tác phẩm đồng tác giả chỉ khác ở việc tính thời hạn bảo hộ kể từ năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Thời hạn bảo hộ chấm dứt đối với các trường hợp trên
Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.”
Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ trên thì thuộc về công chúng. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả.
Xem thêm: