Trước thời đại công nghệ như vũ bão hiện nay, thì mỗi người sở hữu cho mình một chiếc điện thoại là một việc vô cùng phổ biến bởi sự tiện lợi của nó. Nhưng đi kèm với sự tiện ích đó lại là những hiểm họa vô cùng khó lường- đó là tình trạng nhắn tin trúng thưởng qua điện thoại để lừa đảo tài sản. Lợi dụng sự cả tin, không nẵm rõ chiêu thức lừa đảo tinh vi đó nên đã có rất nhiều người đã trở thành nạn nhân của trò lừa đảo tài sản này. Vậy chiêu trò lừa đảo này sẽ bị pháp luật xử lý như thế nào?
Theo quy định tại Điều 139, Bộ luật hình sự liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được quy định cụ thể như sau:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Xét về mặt dấu hiệu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi của kẻ giả danh là người của bên trúng thưởng nhắn tin cho người bị hại với lời lẽ nhằm thông báo thưởng và yêu cầu người bị hại gửi một khoản tiền vào ngân hàng để có thể nhận tài sản đây là hành vi gian dối làm cho người bị hại đã lầm tưởng, tin rằng đó là người bị hại được trúng thưởng nên đã tự nguyện chuyển giao tài sản cho kẻ đó.
Ngoài ra, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự của kẻ thực hiện hành vi gian dối nói trên về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm…. Với giá trị tài sản lên tới 5 triệu đồng người bị hại hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan công an khởi tố hình sự, tìm ra những kẻ lừa đảo chiếm đoạt khoản tiền của người bị hại để bắt họ truy cứu trách nhiệm hình sự theo đúng pháp luật.
>>>Xem thêm: