Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Khi một người biệt tích trong thời gian dài thì tài sản của họ tại nơi cư trú sẽ không được bảo quản, giữ gìn, dẫn đến mất, hỏng tài sản. Do vậy, Bộ Luật Dân sự đã quy định những người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu được quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích.Điều 79 BLDS 2005 đã chia 2 trường hợp người được quyền quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích:
Trường hợp thứ nhất, Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại khoản 1 Điều 75 của BLDS 2005 tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị Toà án tuyên bố mất tích. Đó là:
a) Đối với tài sản đã được người vắng mặt uỷ quyền quản lý thì người được uỷ quyền tiếp tục quản lý;
b) Đối với tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;
c) Tài sản do vợ hoặc chồng đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý.
Trường hợp thứ hai, trong trường hợp Toà án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Toà án chỉ định người khác quản lý tài sản.
Khi quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích, người được giao trách nhiệm quản lý phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản.
- Căn cứ theo Điều 76 và Điều 79 BLDS 2005, nghĩa vụ của người quản lý tài sản bao gồm:
- Giữ gìn, bảo quản tài sản của người bị tuyên bố mất tích như tài sản của chính mình;
- Bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hư hỏng;
- Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn của người bị tuyên bố mất tích bằng tài sản của người đó theo quyết định của Toà án;
- Giao lại tài sản cho người bị tuyên bố mất tích khi người này trở về và phải thông báo cho Toà án biết; nếu có lỗi trong việc quản lý tài sản mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. - Căn cứ theo Điều 77, Điều 79 BLDS 2005, người quản lý tài sản có những quyền sau:
- Quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích;
- Trích một phần tài sản của người bị tuyên bố mất tích để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn của người bị tuyên bố mất tích;
- Được thanh toán các chi phí cần thiết trong việc quản lý tài sản.
>>> Xem thêm: